Dr Lee Khai Pin
Bác Sĩ Nhi Khoa
Nguồn: Getty Images
Bác Sĩ Nhi Khoa
Virus đường hô hấp RSV là một loại virus hô hấp phổ biến, gây nhiễm trùng đường hô hấp và các triệu chứng giống cảm lạnh. Thực tế, nó rất phổ biến đến mức nhiều trẻ em sẽ mắc phải trước khi tròn hai tuổi.
RSV xâm nhập cơ thể qua mắt, mũi hoặc miệng. Nó có thể dễ dàng lây lan qua không khí khi một người mang virus ho hoặc hắt hơi gần, hoặc qua tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh hoặc bề mặt bị ô nhiễm. Bạn có thể tự hỏi liệu một loại virus dễ lây lan như vậy có nguy hiểm cho bé của bạn không. Đối với hầu hết chúng ta, RSV chỉ gây ra cảm lạnh kéo dài chưa đầy một tuần, nhưng nó có thể nguy hiểm đối với một số trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Những đối tượng có nguy cơ cao bị nhiễm RSV nghiêm trọng bao gồm:
Các triệu chứng nhiễm RSV thường bắt đầu xuất hiện từ 4 - 6 ngày sau khi tiếp xúc với virus và tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh và nhóm tuổi. Quan trọng là phải lưu ý rằng, mặc dù các triệu chứng ban đầu có thể xuất hiện nhẹ nhàng, bệnh có thể trở nên nghiêm trọng 3 - 5 ngày sau khi bệnh phát triển. Các triệu chứng sớm của RSV bao gồm:
Trong những trường hợp nghiêm trọng, virus có thể lây lan xuống đường hô hấp dưới, gây viêm phế quản nhỏ (viêm các đường hô hấp nhỏ trong phổi) hoặc viêm phổi RSV (nhiễm trùng phổi). Các dấu hiệu và triệu chứng có thể bao gồm:
Trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi nhiễm RSV. Ở trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi, một số trường hợp nghiêm trọng cũng có thể phát triển các cơn ngưng thở bất thường - các khoảng thời gian trong đó trẻ bất thường ngừng thở.
Nhiễm RSV thường biến mất trong một hoặc hai tuần, nhưng trong thời gian này, nếu bạn nhận thấy bé có môi hoặc móng tay có màu xanh, từ chối bú mẹ liên tục, có vẻ mệt mỏi, hoặc thở nhanh, vui lòng tìm sự chăm sóc y tế khẩn cấp và đến UCC ngay lập tức.
Để chẩn đoán RSV, bác sĩ nhi khoa của bé sẽ tiến hành khám lâm sàng và lấy tiền sử y tế, bao gồm nghe phổi của bé. Nếu cần thiết, tùy thuộc vào tình trạng của bé, bác sĩ có thể thực hiện một số xét nghiệm bổ sung như:
Không có loại thuốc đặc hiệu nào điều trị chính virus. Quản lý RSV chủ yếu bao gồm chăm sóc hỗ trợ và điều trị triệu chứng tại nhà trong trường hợp nhẹ:
Đối với các trường hợp nghiêm trọng cần nhập viện, điều trị có thể bao gồm:
Đối với hầu hết trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ khỏe mạnh, RSV tương tự như cảm lạnh thông thường. Ở một số trẻ sơ sinh nhạy cảm, RSV có thể dẫn đến các biến chứng như viêm phế quản nhỏ RSV và viêm phổi RSV, có thể cần nhập viện điều trị.
Có những lo ngại rằng nhiễm trùng RSV nặng trong những năm đầu đời có thể liên quan đến tình trạng khò khè tái phát, hen suyễn và chức năng phổi bị suy giảm.
Hiện tại chưa có vaccine phòng ngừa nhiễm RSV. Đối với các nhóm có nguy cơ cao, các nhà cung cấp dịch vụ y tế có thể tiêm hàng tháng kháng thể đơn dòng đặc hiệu RSV (palivizumab) trước mùa RSV để cung cấp một số bảo vệ.
Do không có vaccine cho RSV, biện pháp phòng ngừa duy nhất là thông qua thói quen sống:
Đ: RSV là bệnh lây nhiễm. Hãy giữ trẻ ở nhà và tránh gửi trẻ đến trường hoặc nhà trẻ. Điều này cũng giúp ngăn ngừa trẻ bị nhiễm chéo bởi các bệnh vi-rút khác hoặc nhiễm khuẩn thứ phát.
Đ: Có. Cha mẹ và những người lớn khác có thể dễ dàng truyền RSV cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Hầu hết trẻ em nhiễm bệnh sau khi tiếp xúc với các thành viên trong gia đình đã nhiễm bệnh, hoặc từ các trẻ em khác ở trường hoặc các cơ sở vui chơi chung.
Đ: Trẻ em hoàn toàn có thể truyền vi-rút cho cha mẹ hoặc các thành viên khác trong gia đình.
Đ: Nhiễm trùng trước đó với RSV không đảm bảo miễn dịch vĩnh viễn và việc tái nhiễm là phổ biến, tuy nhiên mức độ nghiêm trọng của bệnh có xu hướng giảm theo độ tuổi tăng lên.