Dr Loi Shen-Yi Kelly
Bác sĩ sản phụ khoa
Nguồn: Shutterstock
Bác sĩ sản phụ khoa
U sơ xơ là loại u lành tính phổ biến nhất ở phụ nữ đang trong độ tuổi sinh sản. Những khối u không ung thư này được tạo thành bởi các tế bào cơ trơn và xuất hiện ở 30% phụ nữ, nhưng chỉ 1 trong 4 người biểu lộ các triệu chứng.
U sơ xơ có phản ứng với nội tiết tố, tức là chúng phát triển khi có sự hiện diện của nội tiết tố sinh dục nữ estrogen. U sơ xơ hiếm khi được tìm thấy ở các bé gái chưa bước vào tuổi dậy thì và có xu hướng biến mất sau tuổi mãn kinh.
Trong khi nhiều phụ nữ bị u sơ xơ không gặp phải các vấn đề về sinh sản và có thai kỳ thành công, thì một số loại u sơ xơ nhất định cũng thường được tìm thấy ở những người phụ nữ gặp phải vấn đề về sinh sản.
Vị trí của u sơ xơ thường quyết định mức độ tác động của nó lên khả năng sinh sản. Đặc biệt, u sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc, một dạng của u sơ xơ tử cung, được biết đến với tác động tiêu cực lên khả năng sinh sản.
U sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc - loại u sơ xơ phát triển ngay bên dưới niêm mạc tử cung và có thể nhô ra bên trong khoang tử cung. Chúng ảnh hưởng đến tỉ lệ cấy noãn, mang thai, sảy thai và sinh con thành công.
U sơ xơ ngoài niêm mạc - loại u sơ xơ phát triển ở bên ngoài tử cung. Chúng không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
U sơ xơ nội mạc - loại u sơ xơ được tìm thấy nằm sâu trong vách tử cung. Mức độ tác động của chúng lên khả năng sinh sản hiện vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đã cho thấy chúng có vẻ tác động đến tỉ lệ cấy noãn và mang thai, tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng không bằng so với u sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc.
Các nghiên cứu đã cho thấy rằng việc bóc tách u sơ xơ nội mạc hoặc u sơ xơ ngoài niêm mạc không giúp cải thiện tỷ lệ thụ thai và mang thai một cách đáng kể, không giống như khi thực hiện bóc tách u sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc.
Có nhiều lời giải thích cho việc tại sao u sơ xơ có thể gây nên tình trạng vô sinh ở phụ nữ. U sơ xơ gây ra tình trạng viêm ở niêm mạc tử cung và thay đổi môi trường nội tiết tố tại chỗ, ảnh hưởng đến việc cấy noãn. Hơn nữa, các u xơ lớn có thể cản trở tương tác giữa tinh trùng và trứng, hoặc chuyển dịch phôi bằng cách làm thay đổi sự co thắt của tử cung.
Điều quan trọng là phải tiến hành đánh giá u sơ xơ nhằm xác định dạng thức của chúng và mức độ mà chúng có thể gây ra tình trạng vô sinh.
U sơ xơ có thể được nhận diện và phân biệt bằng nhiều phương pháp.
Siêu âm - Một xét nghiệm siêu âm có hiệu quả trong việc nhận dạng u sơ xơ với đường kính lên đến 4 - 5mm. Tuy nhiên, siêu âm có thể không phải là lựa chọn tốt nhất đối với bệnh nhân bị nhiều u sơ xơ. Nhiều u sơ xơ tạo ra bóng âm, cản trở sự chuyển dịch của sóng siêu âm, dẫn đến việc phát hiện u sơ xơ bằng xét nghiệm quét siêu âm bị suy giảm.
Chụp tử cung vòi trứng - Chụp quang tuyến X ở tử cung và ống dẫn trứng có thể được thực hiện để nhận dạng các u sơ xơ tử cung. Chụp tử cung vòi trứng thường được thực hiện nhằm đánh giá sự thông thoáng của ống dẫn trứng. Tuy nhiên, đây không phải là một phương pháp lý tưởng để nhận dạng u sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc.
Chụp tử cung - Phương pháp chụp tử cung, trong đó một dung dịch vô trùng được tiêm vào khoang tử cung, là lý tưởng để nhận dạng u sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc. Nhược điểm duy nhất là sự khó chịu và nguy cơ nhiễm trùng (1%).
Chụp cộng hưởng từ (MRI) - Dù chi phí cao, phương pháp chụp cộng hưởng từ MRI đáng tin cậy nhất trong việc nhận dạng vị trí của u sơ xơ.
Đối với phụ nữ không biểu lộ triệu chứng, một cách tiếp cận theo dõi cẩn trọng mà không điều trị cũng đã đủ. Bệnh nhân quyết định điều trị các u sơ xơ tử cung vì nhiều nguyên nhân - chẳng hạn như để tăng cơ hội thụ thai hoặc giảm các triệu chứng - có thể quyết định chọn một giải pháp giữa thuốc, phẫu thuật hoặc các thủ thuật không phẫu thuật.
Thuốc men
Phụ nữ bị u sơ xơ có thể dựa vào thuốc men để kiểm soát các triệu chứng của họ, chẳng hạn như giảm lượng mất máu trong kỳ kinh nguyệt. Các lựa chọn y tế khác, chủ yếu là các tác nhân hormon, bởi vì estrogen thúc đẩy sự phát triển của u xơ và progesterone kiềm chế nó, nhưng lại không thích hợp để tăng cơ hội sinh sản. Do tác dụng phụ của một số loại thuốc, chẳng hạn như mất xương, nên chúng chỉ nên được sử dụng tối đa trong 6 tháng.
Phẫu thuật
Cắt bỏ u sơ tử cung nội soi (Hysteroscopic Myomectomy) là thủ thuật phẫu thuật được khuyến nghị cho việc cắt bỏ u sơ xơ. Phương pháp này thích hợp cho u sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc nhỏ hơn 5cm nằm bên trong hoặc nhô ra khoang tử cung. U sơ xơ to hơn 5cm có thể cần phải thực hiện thủ thuật nhiều lần. Trước khi tiến hành cắt bỏ phẫu thuật, các hệ thống phân loại sẽ được ứng dụng nhằm miêu tả u sơ xơ nằm sâu trong niêm mạc một cách chính xác và đánh giá cơ hội thành công của việc cắt bỏ u xơ tử cung nội soi.
Phương pháp mổ nội soi qua đường lỗ khoét ổ bụng (Laparoscopy) thực hiện qua một vết mổ rất nhỏ, và mổ mở bụng (Laparotomy) thực hiện qua một vết rạch lớn, là các lựa chọn thay thế nhằm cắt bỏ u sơ xơ tử cung bằng biện pháp phẫu thuật. Phẫu thuật qua đường lỗ khoét ổ bụng có thể có lợi thế hơn bởi vì nó liên quan đến giảm bớt đau đớn sau phẫu thuật, phục hồi nhanh hơn và giảm khả năng xảy ra cơn sốt. Tuy nhiên, phẫu thuật bằng phương pháp lỗ khoét ổ bụng ít phổ biến hơn do kĩ thuật thực hiện phức tạp.
Vì việc điều trị phẫu thuật u sơ xơ có những rủi ro, chẳng hạn như nhiễm trùng, bệnh nhân luôn luôn nên cân nhắc quyết định phẫu thuật so với các rủi ro tiềm ẩn.
Điều trị không phẫu thuật
Thuyên tắc Động mạch Tử cung (UAE) và gần đây hơn, Chụp ảnh hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging) - Hướng dẫn sóng siêu âm hội tụ (MRI-Guided Focused Ultrasonography ) (MRgFUS) là các phương pháp điều trị mới.
Trong thủ thuật UAE, các hạt nhỏ được thả vào cơ thể để ngăn chặn máu đến tử cung. Một thủ thuật MRgFUS sử dụng các sóng siêu âm cường độ cao nhằm giết chết các tế bào và làm teo các u sơ xơ. Thủ thuật này được thực hiện nhờ có sự giúp đỡ của MRI trong việc dẫn dắt tia siêu âm để nhắm trúng các u sơ xơ một cách chính xác.
Tuy nhiên, khi mà các kỹ thuật này không được ứng dụng rộng rãi thì vẫn chưa có đủ dữ liệu về kết quả sinh sản của các bệnh nhân đang muốn thụ thai. Do đó, chúng ta vẫn chưa khuyến nghị các thủ thuật này. Hơn nữa, còn có lo ngại về sự phát triển của các u cục dính vùng chậu (các mô sẹo dính chặt với nhau) gây cản trở ống dẫn trứng, có thể ảnh hưởng đến dự trữ nang buồng trứng và khả năng sinh sản.